Top 10 bài tiểu luận phân tích "Bài hát chúc mừng" của Nguyễn Công Trứ

Cùng với Cao Bà Quất, Nguyễn Công Trứ (1778-18858) là một trong hai nhà thơ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam trong nửa sau của thế kỷ XIX. Anh ấy là một người tự do, tự do, có một tính cách dũng cảm và kiêu ngạo, đặc biệt là anh ấy yêu người dân và có nhiều đóng góp cho đất nước. Các tác phẩm chính của ông là Nôm với nhiều thể loại thơ, câu thơ, câu đối, bài hát nói và nói, và có khoảng 150 bài thơ trong thơ Đường Lưu. Các tác phẩm tập trung vào ba chủ đề chính: ngay cả đàn ông, triết lý giải trí, tình nhân của màu đen và bạc. Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên có công đưa tiếng nói vào thể loại văn học dân tộc. "Bài hát kỳ quặc" được viết sau năm 1848, khi quan tài của tác giả được giấu kín. Bài thơ khẳng định rằng đó là cách Nguyễn Công Trâu thể hiện tinh thần cá nhân của mình trong cuộc sống. Vui lòng tham khảo một số công việc phân tích bài tiểu luận mà Toplist đã tóm tắt trong bài viết sau để thấy rõ hơn điều đó.

Đầu tiên Sự thanh bình

Bài tiểu luận phân tích tác phẩm "Bài hát ngỏ ngáy" số 1

Nguyễn Công Trứ không chỉ là một quan chức mà còn là một nhà thơ, nhà văn vĩ đại của văn học Việt Nam nói chung và văn học trung cổ nói riêng. Nguyễn Công Trư sáng tác rất nhiều, đặc biệt là văn học Nôm na, và qua những tác phẩm này cho thấy rõ phong cách độc đáo của ông. Và có thể nói, bài thơ "Bài hát tối cao" – tác phẩm được coi là một bản tóm tắt về cuộc đời của Nguyễn Công Trứ là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của ông.

Đọc bài thơ "Bài hát Ngộ" của Nguyễn Công Trù, độc giả sẽ dễ dàng thấy rằng "ng đá" là nguồn cảm hứng xuyên suốt toàn bộ bài thơ, nó xuất hiện bốn lần trong tác phẩm. Vậy từ "ngất" trong một bài thơ nên được hiểu như thế nào? Như chúng ta đã biết, "ngành" là một thuật ngữ dùng để chỉ chiều cao – cao hơn người khác, các vật thể khác và luôn trong trạng thái nghiêng, ngã, nó không hoàn toàn ổn định nhưng không thể rơi.

Tuy nhiên, trong tác phẩm, "ng đá" không được sử dụng theo nghĩa đó mà nó được sử dụng theo một nghĩa khác, đó là cách sống, thái độ của tác giả. Và với sự hiểu biết đó, chúng ta sẽ thấy bài thơ có nhiều điều thú vị và hấp dẫn.

Trước hết, trong sáu câu thơ đầu tiên của tác giả, tác giả đã thể hiện rõ trạng thái ngây ngất của mình khi còn ở trong quan. Đầu tiên, sự xuất thần của việc trở thành một quan chức được thể hiện qua sự khẳng định vai trò và vị trí của chính mình trên trời và đất:

Phi vũ trụ nội bộ

Ông Hi Văn Tài vào chuồng

Với hai câu thơ nhưng tác giả đã thể hiện thái độ của vị trí của mình. Đối với anh ta, mọi thứ trong vũ trụ, trời và đất đều là công việc của anh ta, đồng thời, anh ta xem tái sinh là một cách để anh ta bộc lộ tài năng và trí thông minh của mình. Và sau đó, từ lời khẳng định đó, anh đã thể hiện, thể hiện tài năng và danh tiếng của mình:

Khi thủ khoa, khi cố vấn, khi Toàn quyền Đồng

Bao gồm cả chiến lược lược nên có ngây ngất

Tại trung tướng cờ vua

Thỉnh thoảng đi Phú Đoan Thừa Thiên.

Trong bốn câu thơ, tác giả đã sử dụng một loạt các từ Trung-Việt – thủ khoa, cố vấn, Toàn quyền Đồng, … với một danh sách các thư pháp và chính tả, từ đó cho người đọc thấy tài năng và danh hiệu. của tôi Có thể thấy, Nguyễn Công Trứ là một nhà văn võ thuật, nhưng cũng giữ nhiều vị trí quan trọng trong cuộc đời làm quan chức. Do đó, trong sáu câu thơ đầu tiên của bất kỳ bài thơ nào, tác giả đã nói về tài năng, khoa của mình với thái độ trang trọng, nhấn mạnh và tự hào.

Không chỉ ngây ngất trong nơi ở chính thức của mình, Nguyễn Công Trù còn ngây ngất trong lối sống sau khi nghỉ hưu, được thể hiện chân thực và rõ ràng trong mười ba câu còn lại của bài thơ. Trước hết, lối sống mê tín của Nguyễn Công Trứ khi các quan lại về hưu được thể hiện theo một cách sống khác, khác với cuộc sống và trái cây.

Làm đối tượng cho bộ phận hàng năm

Bò vàng mặc ngựa choáng váng

Hai câu thơ đã gợi lên trước mắt chúng tôi tư thế ngồi mờ nhạt của tác giả trên lưng một con bò vàng được trang trí bằng đồ đạc của con ngựa – một diện mạo khác, như muốn khiêu khích và trêu chọc. Và sau đó, khi thả linh hồn mình vào những đám mây trắng, những ngọn núi cao, diện mạo choáng ngợp của tác giả vẫn không thay đổi:

Kìa, ngọn núi là những đám mây trắng

Kiếm tay nên từ bi

Các vị thần theo một vài đỉnh

Đức Phật cũng cười nhạo Ngài.

Có lẽ trong văn học, chúng ta chưa bao giờ thấy một người đi chùa như Nguyễn Công Trứ. Dạo quanh chùa – nơi thanh lịch và tao nhã đã mang đến một người giúp việc. Ngoại hình, cách sống của mình mà đức Phật cũng phải chào, cũng phải cười.

Đồng thời, trong lối sống của mình, Nguyễn Công Trứ không chú ý đến những gì có thể, mất đi, khen ngợi vì với anh, không sao để mất hay biết cái nào tốt hơn.

Mặt trời đã tắt nắng

Hoàn toàn tiếp xúc với gió đông.

Ngoài ra, ở Nguyễn Công Trù chúng ta cũng thấy sự xuất hiện của một lối sống tự do, thỏa mãn, bất cứ điều gì chúng ta muốn làm, không tục tĩu.

Khi uống, khi sang số, khi rẽ, khi rảnh rỗi

Không Phật, không Tiên, không vấn đề gì.

Như vậy, có thể thấy rằng thái độ và lối sống của Nguyễn Công Trứ khi về hưu có những biểu hiện rất cụ thể. Tuy nhiên, trong anh vẫn thấy nhiều điểm phù hợp với kiếp trước, anh luôn là một người hầu trung thành. Và sau đó, ông đã có một bản tóm tắt về cuộc sống đầy minh bạch và hài lòng trong những câu thơ khép lại bài thơ.

Non Trai, Nhắc cũng vào phường Hán và Phú

Vua của tôi có nghĩa là toàn vẹn cho tôn giáo chung

Trước tòa, anh ngây ngất đến mức nào!

Nói tóm lại, bài thơ "Bài hát choáng ngợp" của Nguyễn Công Trứ với giọng điệu khẳng định và lời nói táo bạo một lần nữa cho chúng ta thấy vẻ đẹp của tính cách của tác giả – một người tài năng. , lý tưởng sống hài hòa giữa những điều cho cuộc sống và cho chúng ta.

2 Sự thanh bình

Bài tiểu luận phân tích tác phẩm "Song ngiêu ngiêu" số 2

Nguyễn Công Tru là Tôn Chat, Hi Văn, sinh năm 1778, quê ở làng Uy Viên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha ông, Nguyễn Công Tân, có một nén nhang và từng là một thống đốc của Tiến Hưng (Thái Bình). Sau đó, anh hưởng ứng phong trào Phố Lê chống Tây Sơn.

Nguyễn Công Trứ là một tài năng hiếm có theo nhiều cách, người sớm xác định con đường tiến bộ của mình bằng cách được công nhận. Khi còn trẻ, ông đã làm việc chăm chỉ ở trường, nhưng không tham gia kỳ thi cho đến khi 42 tuổi để vượt qua giải thưởng. Cuộc đời làm quan chức của anh ta lên xuống bất thường, nhưng anh ta luôn luôn nắm lấy ý chí vĩ đại và giữ cho tôi trung thành, Nguyễn Công Trứ, mong muốn thực hiện nghĩa vụ và nghĩa vụ của mình, kể cả nhiều lần đàn áp nông dân nổi dậy. , nhưng không thể làm mất đi yếu tố tiến bộ của nho thật.

Khi là một quan chức, ông nổi tiếng về sự liêm chính. Trong việc đòi lại đất chưa sử dụng, kè lấn biển. Nguyễn Công Trứ đã mang lại lợi ích cho người dân ở nhiều nơi, đáng chú ý là Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiên Hải (Thái Bình). Năm 1858, thực dân Pháp đã nổ súng xâm chiếm nước ta, mặc dù ông Nguyễn Công Trượng 80 tuổi vẫn đề nghị yêu cầu quân đội chiến đấu với kẻ thù. Cùng năm đó, anh qua đời.

Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt của một học giả có cuộc sống phóng túng và tính cách độc đáo, tự do. Những bài thơ còn lại của Nguyễn Công Trứ gồm có khoảng 50 bài thơ, hơn 60 bài ca ca trù, một bài thơ châm biếm, tất cả đều được viết bằng chữ Nôm. Ngoài ra còn có một số bài thơ tiếng Hán và một số chữ Nôm.

Bài hát cao chót vót là một tác phẩm được viết sau năm 1848, khi Nguyễn Công Trứ nghỉ hưu. Đây là giọng nói của Hi Van sau một cuộc đời gập ghềnh. Sự suy tàn của chế độ phong kiến ​​Việt Nam được đánh dấu bằng sự xuất hiện của một người đàn ông muốn được tự do (như Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu), anh hùng "nổi loạn" (như Từ Hải trong Truyen Kiều.), Một Người phụ nữ "nổi loạn" (trong bài thơ Hồ Xuân Hương) …

Nó cũng là một phản ứng với tình huống này, nhưng ở Nguyễn Công Trứ, biểu hiện chủ yếu là về khái niệm và lối sống bằng cách mở rộng hình ảnh của cá nhân đến mức hài hước. Dưới con mắt của mọi người và sự tôn trọng của Hi Van, đó là một cú sốc. Bài thơ được viết dưới dạng Ca trù, còn được gọi là hát nói, một phong cách thơ của nhịp điệu và câu thơ. Ở đây, để phù hợp với nội dung cảm xúc của bài thơ.

Cấu trúc của một bài thơ gần giống như một câu thơ của một bài thơ nói, được chia thành nhiều đoạn được gọi là thước đo. Mỗi đoạn văn được kết nối với cụm từ "ng đá", chiếu sáng các góc độ khác nhau của hình ảnh của nhân vật trữ tình, trên cơ sở nguồn cảm hứng chính của nhân loại và ý nghĩa chống phong kiến.

Người ngây ngất của Nguyễn Công Trù trước hết là một người tài năng và nổi tiếng. Câu thơ Hán-Trung ban đầu bắt đầu đưa ra khái niệm tự lực của Nguyễn Công Trứ: "Vũ trụ bên trong là phi sứ mệnh". Đây là quan niệm mà ông đã nói nhiều bài thơ, nói rằng con người được sinh ra bởi "ý chí của trời và đất" ("Thiên đường của ngô được sinh ra có chủ ý" – Trời và đất được sinh ra với ý định), vì vậy nó có trách nhiệm. nhiệm vụ, phải gánh vác công việc của cuộc sống (Nhiệm vụ dồn vào vũ trụ "- Những thứ trong vũ trụ nằm trong nhiệm vụ của chúng ta).

Ở Nguyễn Công Trứ, khái niệm đó gắn liền với ý tưởng "tu, qi, tri, binh", với ý chí trở thành con trai và chủ nghĩa anh hùng mà anh theo đuổi với tất cả niềm tin và sự lạc quan trong suốt cuộc đời. Theo khái niệm đó là sự hiện diện của một tài năng xuất chúng và danh tiếng lẫy lừng:

"Ông Hi Wen đã vào chuồng ……

thỉnh thoảng đi Thừa Đoàn "

Tự truyện thông qua các nhân vật từ danh tính cá nhân của chức danh, các quan chức, tài năng đã miêu tả sự tự nhận thức của bản thân, mức độ phơi bày dưới dạng: "Ông Hi Van Tai đã vào lồng". Câu thơ cũng có nghĩa là châm biếm: một người có tầm vóc như vậy đặt mình vào một cái lồng bị giam cầm. Nhưng trò đùa nhỏ này thực sự là để khẳng định sự tự tin của Nguyễn Công Trứ.

Ông không biết rằng bộ máy quan liêu có đầy những sợi dây trói buộc. Ở dạng biểu hiện, có sự kết hợp giữa hệ thống Trung-Việt và Nôm: Từ ngữ Trung-Việt về quan chức và chức danh cho thấy một tài năng thành công gắn liền với xã hội phong kiến.

Từ Nôm là những từ phổ biến được sử dụng linh hoạt trong các câu thơ dài và ngắn về nhịp điệu, nhịp điệu và lan truyền để diễn tả cá nhân tự do, trong khi nêu rõ gốc rễ của sự ngất xỉu trong Người đó là gì: "Bao gồm các chiến lược nên được ngây ngất" . Do đó, người ngây ngất ở đây là người cũng là cơ sở để cá nhân vượt lên trên mọi mối quan hệ.

Ngưỡng trong bài thơ "Lời nguyền Cong Tru" là sự bất tỉnh trước khi cuộc sống bị mất. Cuộc đời của Nguyễn Công Trứ được ghi nhận bằng thành tích, khuyến mãi và khuyến mãi.

"Vào lúc bình minh, lá cờ đại diện

Thỉnh thoảng đi Phú Đoan Thừa Thiên ".

Nhưng cũng có những bước lùi, cay đắng. Theo các ghi chép lịch sử, Nguyễn Công Trứ là một vị tướng, khi ông ta bị giáng chức cho một người lính, có lẽ ông ta tài giỏi hơn người của mình. Nhưng những gì về việc giáng chức? Và có những ý kiến ​​từ công chúng. Nguyễn Công Trù thấy rõ đằng sau sự bất công mà anh phải chịu là mặt tối của xã hội phong kiến. Khi cần thiết anh ta lên án gay gắt:

"Vì vậy, tình nhân là chết người

Lat trông đầy túi.

(Vịnh tình trạng con người)

Tuy nhiên, cách thể hiện thái độ mà Nguyễn Công Trứ đặc biệt chọn là đối chiếu người dân của mình với phong tục với thái độ chào đón và tiếng cười thỏa đáng. Chuyện kể rằng, khi Nguyễn Công Trứ về hưu, ông thường cưỡi một con bò vàng bằng nhạc ngựa, và mang theo một chiếc cau để buộc đuôi một con bò, nói để che miệng thế giới. Và ông nói rằng đó là một cú sốc: "Con ngựa vàng mặc nó."

Bên trong tiếng cười và cử chỉ đó là triết lý tự nhiên của sự lạc lõng: "Mất đi sự tích cực và tái sinh". Nguyễn Công Trứ đã thông qua từ điển "Mã bị mất" để phơi bày bản chất xã hội và đưa ra quan điểm của mình. Xã hội hỗn loạn thời Nguyễn Công Trù thiếu cảnh "lên voi và đứng dậy" và đó là vùng đất tạo ra khái niệm may mắn.

Có một điều là ở một người đàn ông cứng rắn và có niềm tin vào bản thân như Nguyễn Công Trứ, khái niệm đó không thể biến thành một suy nghĩ hoài nghi khiến mọi người cảm thấy nản lòng hoặc bị đẩy vào tình trạng "vô dụng" của Lào. Trang. Ngược lại, nó cung cấp một lập luận để anh ta không phải lo lắng về cuộc sống "nóng và lạnh" và thêm "tích cực và tích cực".

Tuy nhiên, đối mặt với "mất" cũng có nghĩa là phải đối mặt với người giàu và người nghèo, sự sỉ nhục vốn là giá trị vật chất tinh thần truyền thống. Hiểu theo cách đó, chúng ta sẽ thấy rằng những người "tích cực" và "ngây ngất" là những người thực sự tài năng và chất lượng, vượt qua các thế lực cổ đại thống trị trong cuộc sống của con người.

Bất ngờ cũng thể hiện ở phong cách, lối sống. Ở Nguyễn Công Trứ, có một người đàn ông lý tưởng có chí đã trở thành một người đàn ông phong kiến. Nhưng cũng có một cá nhân sống tốt nhất của mình; Có những người hành động háo hức, lạc quan và mọi người vui vẻ theo đuổi sở thích của họ: "Cung tay … một đôi dì" Nguyễn Công Trứ đã cho tất cả tài năng và cảm hứng của mình để vẽ nên những bức tranh về cuộc sống. theo cách nói riêng của nó: các từ mô tả màu sắc, các dòng {"phau phau", "đồng nghĩa", "phơi bày"), các thông điệp liên quan đến nhịp điệu của thơ tự do ("Khi hát, khi uống … Không có Phật , không có Tiên … ")

Khả năng diễn đạt dồi dào của tiếng Việt đã thể hiện sự đặc biệt của những người phóng túng và đam mê của Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên, đây không chỉ đơn thuần là một thú vui thơ mộng. Nguyễn Công Trứ đã cải thiện những gì được mô tả như một phong cách, một lối sống và sử dụng ý đồ nghệ thuật của nhà thơ để biến nó thành một hình ảnh trái ngược với chủ nghĩa giáo điều phong kiến.

Tư tưởng Nho giáo đòi hỏi mỗi người phải có trách nhiệm với cộng đồng, nhưng phủ nhận "cái tôi", áp đặt cho anh ta một cuộc sống khắc nghiệt, vô nhân đạo. Phật giáo và Đạo giáo hướng con người đến con đường thoát tục và giải thích rằng đáp ứng nhu cầu của cuộc sống con người là nguyên nhân của đau khổ. Từ cuộc đời tôi sở hữu Nguyễn Công Trù đã đến "non nớt", "cảnh phật" bởi vì có một thế giới tự nhiên tươi đẹp gắn liền với hệ tư tưởng phong kiến ​​siêu hình đã vươn lên thành một cuộc sống đích thực của con người.

Kết luận của bài thơ Nguyễn Công Trù tự tóm tắt mình với một đặc điểm: một tài năng, một tham vọng lớn, sống trong xã hội phong kiến ​​không thể không nhìn thấy con đường, lý tưởng của xã hội để kiểm tra tài năng, làm nên sự nghiệp; một tính cách mạnh mẽ, tự tin và ý thức về bản thân với các điều kiện chủ quan và là tiền đề xã hội để chống lại tình huống và giải phóng nhân cách. Kết hợp những khía cạnh này trong một người, tạo ra một phong cách sông cao chót vót.

Từ "tay trong tay", "Đức Phật cũng cười rằng ông đã" kết thúc "trong triều đại ngây ngất khi ông" bài thơ đã đưa ra lời khẳng định, thay vì khẳng định một người điển hình cho một loại người có một sự không chính thống thiên nhiên với một "cái tôi" táo bạo tồn tại tự nhiên trong lòng xã hội phong kiến.

3 Sự thanh bình

Bài tiểu luận phân tích tác phẩm "Song ngiêu ngiêu" số 3

Nguyễn Công Trứ, cái tên thực sự quen thuộc và gần gũi đã được nhiều người Việt Nam nhắc đến từ lâu như một lòng biết ơn về công lao khám phá hai vùng đất giàu có: Tiên Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Nhưng không vì thế mà chúng ta có thể quên một Nguyễn Công Trứ, một nghệ sĩ tài năng, một nhân cách đã khẳng định cái tôi của mình, từ đó hình thành nên một nhân cách, một bản lĩnh trong cuộc sống. và sáng tạo nghệ thuật. "Bài hát chúc mừng" của Nguyễn Công Trù sẽ cho chúng ta thấy rõ bản lĩnh độc nhất vô nhị của anh ấy.

Theo "Từ điển tiếng Việt", ng đá được hiểu là ở một vị trí không ổn định, lắc lư như thể nó đang rơi. Tuy nhiên, hai từ ngây ngất trong bài thơ này của Nguyễn Công Trù cần được hiểu theo một cách khác, ở đây cực lạc cần hiểu sự gắn bó với một lối sống, một thái độ sống.

Bằng cách này, chúng ta có thể hiểu con người của Nguyễn Công Trứ – một người có lối sống khác, bất chấp mọi lực lượng trong cuộc sống, một cuộc sống được khẳng định bởi chính tài năng tuyệt vời. Toàn bộ bài thơ không chỉ là một sự làm rõ ý nghĩa của sự xuất thần của chính mình, mà còn được coi là một sự tự thú của cuộc sống, một niềm tự hào của một người đàn ông có công và tiền bạc lâu dài. đồng thời cho chúng ta thấy một phong cách sống phóng khoáng của Nguyễn Công Trứ.

Phần mở đầu của bài thơ là một sự khẳng định về khái niệm cuộc sống của một cậu bé: vũ trụ bên trong như một phi sứ mệnh. (Mọi thứ trong vũ trụ, không có gì không phải là nhiệm vụ của tôi). Câu thơ vang lên một cách chắc chắn, khẳng định mạnh mẽ và tự hào về khái niệm làm con trai của Nguyễn Công Trứ. Đây là một quan niệm cho rằng Nguyễn Công Trứ luôn nhận thức được bản thân và đồng thời quyết định vị trí của mình trong cuộc sống.

Điều này đến từ một học giả tài năng. Câu nói này của Nguyễn Công Trù đã được khẳng định là một sự thật và đã trở lại như một đề xuất quen thuộc trong thơ ông. Vũ trụ của bổn phận ngô (Những thứ trong vũ trụ đều là bổn phận của chúng ta – Nợ của tang tóc). Hay trong bài viết Ganh trung hieu, Nguyễn Công Trù cũng khẳng định: Vũ trụ có chức năng như một người hầu (Công việc trong vũ trụ là nhiệm vụ của chúng ta)

Điều đó có nghĩa là Nguyễn Công Trói luôn tự nhận mình có một quan niệm sống tích cực, và cũng cho thấy rõ hơn sự tự nhận thức của chính tác giả. Vì luôn ý thức được vị trí của mình trên trời và đất, Nguyễn Công Trứ không ngần ngại khẳng định ý chí trở thành con trai của mình, tác giả lần lượt chứng minh cho người đọc thấy tài năng và bản ngã của chính mình:

Ông Hi Văn Tài vào chuồng

Khi thủ khoa, khi cố vấn, khi Toàn quyền Đồng

Bao gồm cả chiến lược lược nên có ngây ngất.

Nguyễn Công Trư tự xưng, đồng thời, khẳng định tài năng của mình (tài năng lớn, nhiều khía cạnh) với những cái tên như thủ khoa, cố vấn, và Toàn quyền Đồng. Câu thơ có nhịp độ đều đặn, ngắn gọn với việc sử dụng thông điệp khi tạo ra một sự khẳng định niềm tự hào. Tuy nhiên, xuất hiện trong bài thơ không chỉ là một thiên tài Nguyễn Công Trâu, mà còn là một Nguyễn Công Trứ với thiên tài kinh tế như vậy:

Trong thời gian phương Tây, cờ vua Trung Quốc,

Thỉnh thoảng đi Phú Đoan Thừa Thiên.

Vì vậy, ở đây chúng ta có cơ sở để khẳng định một con người có tài năng thực sự và luôn nhận thức được tài năng của chính mình. Đây cũng là lời khẳng định về cái tôi của Nguyễn Công Trứ, một phần của phẩm chất mà ông tự hào gọi là bàn tay siêu nhiên. Từ đó chúng ta có thể hiểu siêu nhiên theo nghĩa tích cực, bao gồm cả việc khẳng định cái tôi của chính mình. Một Nguyễn Công Tru tài năng, với tên thật như vậy, khi trở lại cuộc sống bình thường, anh ta là một kẻ nhạo báng kiêu ngạo của cuộc sống:

Làm đối tượng cho bộ phận hàng năm

Sửa con bò vàng đeo ngựa choáng váng.

Vì vậy, anh không ngại thể hiện một lối sống khác, những người khác:

Kìa, ngọn núi là những đám mây trắng

Kiếm tay nên từ bi

Các vị thần đi theo một vài người dì

Đức Phật cũng cười nhạo ông.

Là một nhà Nho, từng là một vị tướng nổi tiếng, một lần xông vào trận chiến đó, ông sống một cuộc sống đơn giản rất từ ​​bi. Tuy nhiên, cách sống đó của Nguyễn Công Trứ không bình thường chút nào: đi dạo quanh chùa: "vị thần đầu tiên có đôi dì", có lẽ anh ta bất chấp cuộc sống, chế giễu cuộc sống, có lẽ kiến ​​thức như vậy là hời hợt. Đến thời Nguyễn Công Trứ là người biết chơi theo quan niệm sống hết mình và chơi hết mình.

Trên trần nhà của một số ngôi làng … Biết trò chơi không dễ dàng đối với một số người hoặc anh ta từng tuyên bố Nếu anh ta không chơi, anh ta sẽ trang điểm … Vì vậy, có thể hiểu rằng đây là một lối sống phóng túng, không hạn chế. Câu thơ được Nguyễn Công Tru mô tả với một nụ cười dí dỏm, nhiều niềm tự hào của tác giả, có thể cười vì lời khen ngợi của mọi người, có lẽ cả hai, bởi một điều đơn giản.

Mặt trời đã tắt nắng

Hoàn toàn tiếp xúc với gió đông

Với Nguyễn Công Trứ, một khi anh đã thoát khỏi vòng vây danh vọng, mọi thứ sẽ bị mất và bị chỉ trích trong cuộc sống vì bỏ qua đôi tai của anh, giống như một cơn gió mùa đông chỉ thổi. Điều này chỉ có thể khi mọi người tự tin vào tài năng của họ. Đó cũng là ngưỡng cửa của Nguyễn Công Trù chứa đựng hạt nhân của lối sống không bình thường, ngang bướng của anh. Đó là lý do tại sao anh ấy có một cuộc sống hạnh phúc, cao quý:

Khi sang số, khi uống, khi rẽ, khi rảnh rỗi

Không Phật, không Tiên, không vấn đề.

Câu thơ được ngắt bằng hai dòng, kết hợp với cùng một cách diễn đạt khiến cho câu thơ chậm lại, qua đó miêu tả phong cách duyên dáng và cao quý của nho Nguyễn Công Trứ. Thái độ như vậy của cuộc đời anh đến từ những người tự tin vào bản thân, luôn ý thức về bản thân. Biểu hiện của bản ngã được bộc lộ rất rõ trong khổ thơ cuối:

Non Trai, Nhắc cũng vào phường Hán và Phú

Vua của tôi có nghĩa là toàn vẹn cho sợi chung

Trước tòa, anh ngây ngất đến mức nào!

Nguyễn Công Trù đã khẳng định mình là một người trung thành, hoàn thành định hướng của vua tôi, điều này góp phần khẳng định quan niệm của tác giả về con chấy như một đứa con trai ở đầu bài thơ. Bằng cách so sánh với các anh hùng như Yue Fei, Han Qi, Fu Zhen … của nhà Hán, nhà Tống ở Trung Quốc.

Tác giả đã khẳng định tài năng và công đức của mình trong một tư thế đĩnh đạc. Nó cũng có thể được coi là những từ tự hào về bản thân. Từ đó Nguyễn Công Trù tự hào tuyên bố: Trong triều đình người ta ngây ngất như anh!

Cho đến nay, chúng ta phải hiểu ngưỡng tối cao của Nguyễn Công Trứ. Không gì khác ngoài thái độ, cách sống của một người nghiệp dư nho. Nguyễn Công Trứ nhận được nó từ tài năng, tên thật, từ việc hoàn thành nhiệm vụ của mình. Vì vậy, sự thừa thãi của anh ta không phải là tiêu cực mà là sự tự khẳng định bản thân, sự can đảm để sống trong cuộc sống và một lối sống tài năng.

Cùng với những bài thơ khác như Lấy một bài thơ tự xưng, Chi do con trai, Nợ tang, Ganh trung hiếu thảo … Bài thơ Bài thơ cao cả đã một lần nữa miêu tả chân dung của nhà thơ. Đây là phong cách sống, phong cách nghệ thuật của con người và thơ ca của Nguyễn Công Trứ – phong thái ngây ngất.

4 Sự thanh bình

Tiểu luận phân tích tác phẩm "Song ngiêu ngiêu" không. 4

Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc ta trong nửa đầu thế kỷ 19. Văn học xuất chúng, kinh tế quốc tế tài năng, lưu danh sách lịch sử. Khi sống cuộc sống của một người lính, khi tôi phụ trách quân đội, khi tôi là một người lính, tôi là một sĩ quan. Vinh quang đã ở đó, thăng trầm đã từng trải, nhưng anh luôn háo hức trở thành người đàn ông mưu mô, công bằng với món nợ tang, sống vì một khát khao phi thường:

"Đã đạt được danh tiếng trên trời và đất,

Những gì phải có một danh sách với những ngọn núi và dòng sông ".

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, thể hiện cá tính sáng tạo rất độc đáo được thể hiện rất đẹp qua bài hát Nôm cổ điển "Han goc vu phong", và hơn 60 bài thơ cực kỳ tài năng. bông hoa. "Bài hát kỳ quặc" là một trong những bài thơ kết nối kiệt tác trong thơ của quốc gia. Bài hát này có hai câu cho tất cả với 19 câu thơ đầy vần điệu, âm nhạc du dương và du dương, vào thời điểm khoan dung, những lúc hào hùng, đọc và nghe rất thú vị. Ca hát là một thể thơ quốc gia, với bố cục chặt chẽ, chất lượng thơ, và sự kết hợp âm nhạc rất hài hòa và hấp dẫn.

Nguyễn Công Trứ trở lại vị trí của mình vào năm 1848, sau gần 30 năm làm quan của nhà Nguyễn. Bài thơ, "Bài hát cao cả", được viết sau khi trở về quê nhà ở quê nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thú về cuộc sống, qua đó ông Hi Vân tự hào về tài năng, đức hạnh và công đức của mình, thể hiện một tính cách, một lối sống đầy tham vọng, tự do trong cuộc sống.

"Ngỏ ngiêu" có nghĩa là không ổn định, ở những nơi mà crouch dễ rơi, dễ rơi (từ điển tiếng Việt). Trong bài thơ này, nên hiểu rằng "ng đá" là một cuộc sống khác, một cách sống khác và bất chấp con người. Và sự ngây ngất đã được Nguyễn Công Trù nâng lên thành một bài hát, một giai điệu tâm hồn với tất cả niềm tự hào và niềm đam mê hiếm có.

Khổ bằng chỉ cao một chút, nói, một trong những nam tính, đ nam tài. Trang trọng và tài năng: "Vũ, trong khi tập trung". Một trong những phần của họ. Mà có thể chỉ có một? Thời gian, văn hóa: "Vũ, tình yêu và sự khác biệt" ("," "" "" "" "" "" "" "" "" "" Gánh trung Đông).

Có cái này với phần lớn, phần chính "Ông Hi Văn tài và phần ăn". Hi Văn là đặc điểm của Nguyễn Công Trứ. "Tài bộ" là tài năng lớn, tài năng. Chữ "chữ" trong câu thơ có nhiều chữ nhỏ khác nhau. "Nghi phạm là một phần của họ, là một phần của anh ấy, là một phần của anh ấy.

Có một lần nữa, chúng tôi có thể " Nguyễn Công Trứ có nhiều vấn đề: "Mang mang ở Nam" Cách kết hợp với hai phần của bạn, vì có

"Chí làm trai nam nam hoàng,

Cho phỉ hè vọ vào trong lòng ".

Sau khi có xưng danh, nhà ở tình yêu của anh ta, "tài", sự nam tính của anh ta Ông Hi Văn là một người có tài và thực hành. Học hành thi cừ, anh thách đấu với nhau. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ Thư Thủ Khoa Nghệ. Làm quan, vất vả Tham tán; làm văn bản, là văn phòng Đông (Hải Dương và Quảng Yên).

Tiếng tăm liêu liêu "Làm thế là điếc anh ta ở thế tính" ("anh anh hùng"). Văn hóa, tài, văn hóa, văn hóa, tài năng, tài năng và văn hóa, tài năng và tài năng Câu đối với chúng tôi (3-3-4-3-3-2), ba Bạc

"Khi Thủ khoa! Khi Tham tán! Khi Đồi Đông,

Phục thể thao! trẻ tay ngiêu ngiêu ".

Theo câu, theo câu, một phần của anh ấy, một phần của anh ấy. Thời gian làm việc của chúng tôi, cuộc sống của chúng tôi. Cạn bình và nước, vua, làm "Mộc doãn Thừa Thiên". Mạnh là năm 1847, Nguyễn Công Trứ ở phần trên và cao nhất. Ông Giăn nói: "Lúc làm Đại, ta làm việc, vinh, làm việc, tôi làm việc, làm thế nào đó". Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ trong tình trạng ở nhà, năm, anh chàng, con 70, (1848):

"Đô môn và chi chi,

Đầm Nạc bò vàng và vàng.

Phần cứng, phần mềm, phần mềm, phần mềm, phần mềm, phần mềm, phần mềm và phần mềm. Vịt quan quan ăn phở "hôm nay xe con" này có thể nuôi bò và cho bò. Người mà thôi Như một phần hai Cho ăn nay dân gian và giải trí và truyền tải

"Vẹt cầu, lên xe, nọ tưởng.

Lợm ở Nhật Bản

Điện thoại

Nam tấm mo che khuất thời gian ".

Tám câu tiếp theo trong hai chiều và lên Xưa kia là một trong những người khác, một trong những mối quan hệ – "tay của họ cung" Đi bộ mà thôi, để ăn, trong đó, văn hóa, quan trọng, vui vẻ, vui vẻ.

"Kìa Núi nọ phau phau mây,

Tay mang cung mà hung từ bi.

Gót chân theo đa chiều và nhỏ dì.

Bụt tối niêu ra và ng …

Ông bầu của chúng tôi và những người khác. "Bụt tối nọ và anh ấy có thể kiếm được". Câu thơ tự tin trong số ít hóm hóm. Bụt mật, hay hoàng hoàng hoàng tử? Hay ông Hi Văn tự bản sao? Cất cánh, âm thanh, tính toán, sự săn sóc, tình cảm và sự hài lòng Cấm "khen, chê" của bạn

Có văn bản, có tự tin và tài năng của họ Có khi Nguyễn Công Trứ là một trong những nhà máy, trong đó có một phần tình yêu và tài tình Không có gì quan trọng, tuyệt vời, thú vị, vui vẻ, vui vẻ, thú vị. Tuy ngiêu ngiêu mà trong đó, thanh cao. Trẻ em là câu thơ hay trong "Bài ca ngùi ngọ":

"Khi ca / ​​khi tửu / khi cắc / khi thùng /

Phật Phật / không Tiên / không váng ăn ".

Cách làm cho điện thoại, 2, điện thoại, âm thanh, âm thanh, âm thanh, âm thanh, âm thanh, âm thanh, âm thanh, âm thanh, âm thanh, âm thanh, âm thanh dung, yêu, ham sống, thanh cao, v Có thể nghe và hát, có tiếng, tiếng, tiếng, chiêu, tiếng, chiêu Giàn là ng hạ ngàng mà tài hoa, tài tử.

Khổ số của bài hát của âm thanh có 3 câu. Câu cuối cùng là câu câu có 6 câu. Văn bản văn hóa và văn bản & # 39; văn bản ca ca "- NXB Văn học 1987 mớ

"Xông vào, chỗ ở của Hàn

Phú, Nghĩa vua, tôi chọn

Trọng phòng ai ng bầu ngọ như anh! "

Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thuỷ chung, trọn vẹn "nghĩa vua tôi". Ông đã viết trong bài "Nợ tang bồng":

"Chí tang bồng hẹn với giang san,

Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác".

Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân có kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật – những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Hai so sánh gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương Nam, tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng "ông" đĩnh đạc, hào hùng: "Trong triều ai ngất ngưởng như ông!". Cái bản ngã phi thường của nhà thơ đã được phô bày cực độ.

Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải "vẹn đạo vua tôi" mới trở thành "tay ngất ngưởng", "ông ngất ngưởng" được. Và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, không vướng tục", cũng không thoát li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng.

Cái nhan đề, thi đề "Bài ca ngất ngưởng" của ông Hi Văn rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của nhà thơ cũng rất độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất "ngông". Một đằng ngất ngưởng mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn. Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi cuốn, hấp dẫn.

Trong nền thi ca cổ điển Việt nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… là những nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, chất tài tử hoà nhập với chí anh hùng, nợ tang bồng, chí nam nhi. Đó là phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. "Bài ca ngất ngưởng" đích thực là "Bài ca từ đáy lòng" của ông Hi Văn cho ta nhiều thú vị.

5 Sự thanh bình

Bài văn phân tích tác phẩm "Bài ca ngất ngưởng" số 5

Trong văn học, ngoài cái tôi lãng mạn, hào hoa khiến người ta say đắm thì còn một cái tôi ngang tàn, ngạo nghễ cũng không kém phần thu hút. Nếu như cái "ngông" của Nguyễn Tuân thể hiện ở sự phản ứng tiêu cực và đầy kiêu ngạo trước cuộc đời, ông thể hiện phong cách tài hoa của mình qua những trang viết lịch lãm, đặt mình lên trên thiên hạ thì Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện sự "ngất ngưởng", phóng khoáng trong cả tài năng, trí tuệ lần cốt cách của ông. Điều đó được thể hiện rõ nét qua tác phẩm Bài ca ngất ngưởng. Có thể nói, bài thơ chính là lời khẳng định của nhà thơ về thái độ sống của mình với cuộc đời.

Bài ca ngất ngưởng được sáng tác năm 1848, Nguyễn Công Trứ từ quan về quê nhà sau hơn 30 năm ông làm quan dưới triều Nguyễn. Trong suốt hơn 30 năm, Nguyễn Công Trứ lúc làm lính thú, lúc cầm quân chinh chiến, khi lại làm đại quan… ông đã từng vinh nhục kinh qua, thăng trầm có cả.

Nên có thể nói bài thơ Bài ca ngất ngưởng vang lên như một lời tự thuật vể cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào vể tài năng, đức độ và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời. Bài hát nói này có hai khổ đôi, tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hát nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ, chất nhạc kết hợp rất hài hoà, hấp dẫn.

Mở đầu bài thơ là lời khẳng định của tác giả về quan niệm sống của một đấng làm trai: "Vũ trụ nội mạc phi phận sự." (Mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta). Nguyễn Công Trứ muốn khẳng định cái ngông của chính mình, rằng mọi việc trên đời này đều là việc của ông. Đây chính là sự xác định được vị trí của bản thân, là tuyên ngôn của kẻ sĩ có tài.

Nếu như các nhà văn thường chỉ bày tỏ cái nhìn của mình đối với những khía cạnh khác nhau của cuộc đời và cảm xúc của mình với một trong những khía cạnh đó thì Nguyễn Công Trứ ngược lại hoàn toàn, ông cho rằng đã là nam nhi trong thiên hạ thì không có một việc gì là không giải quyết được. Đấng làm trai cũng không bao giờ được trốn tránh những việc liên quan đến phận sự của mình trong thiên hạ, trong trời đất.  Để chứng minh cho quan niệm này thì Nguyễn Công Trứ đã nêu ra cái bản ngã của cuộc đời mình:

"Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Lúc bình Tây, cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên."

Là một người có kinh nghiệm làm quan trên 30 năm, tác giả kể ra những chức vụ mà mình đã từng đảm nhiệm trong suốt những năm tháng phụng sự cho đất nước ấy. Đó là: "Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông…". Hẳn phải là một người tài giỏi, trí tuệ hơn người, thông minh, điều sự đều nhanh trí thì Nguyễn Công Trứ mới được giao cho nhiều trọng trách như vậy.

Vì lẽ đó mà không một công việc gì mà tác giả chưa từng nếm trải qua, nên ông đã khẳng định với những đấng nam nhi còn lại trên cuộc đời này một lí lẽ chắc nịch như vậy. Những chứng cứ nhà thơ nêu ra rất xác đáng, là ví dụ không thể chối cãi cho lập luận ban đầu của ông.

Những tưởng chỉ khi làm quan, có chức có quyền thì Nguyễn Công Trứ mới bày tỏ cái tôi ngạo nghễ, phi thường đến như vậy nhưng không, kể cả trong cuộc sống thường ngày hay khi cáo quan về quê thì cái tôi ấy vẫn không hề mất đi mà còn tự do hơn:

"Đô môn giải tổ chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng"

Hình ảnh "đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng" cho thấy thái độ giễu cợt của tác giả đối với cuộc đời. Ông chưa từng thấy cái tôi của mình nhỏ bé, thấp hèn mà luôn thấy nó to lớn, sánh ngang với cuộc đời, để có thể hiển nhiên mà chế giễu. Đến cả Bụt cũng phải cười trước sự ngất ngưởng của nhà thơ:

"Kìa núi nọ phau phau mây trắng

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi

Gót tiên theo đủng đinh một đôi dì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng."

Từ giã cuộc đời làm quan, trở về với cuộc sống bình thường giản dị nhưng lối sống của Nguyễn Công Trứ lại không tầm thường một chút nào. Hình ảnh miêu tả thật hóm hỉnh "Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi", cũng dễ hiểu thôi bởi nhà thơ trước kia là một người ở chốn quan trường đầy xô bồ, mưu mẹo, nay sống một cuộc sống của người dân bình thường bỗng cảm thấy mình thật "từ bi".

Ông đi lễ chùa mà cũng phải "Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì". Quả thật, Nguyễn Công Trứ là một con người sống vô cùng phóng túng, sống hết mình mà chơi cũng hết mình. Ông luôn tỏ một thái độ hiên ngang, giễu cợt trước cuộc đời, khiến cho đến cả Bụt cũng phải cười trước sự "ngất ngưởng" của riêng ông. Có thể nói, mấy ai đạt được đến cái sự bất cần, ung dung như Nguyễn Công Trứ. Nhà thơ có được cái phong thái này bởi lẽ:

"Được mất dương dương người thái thượng

Khen chê phơi phới ngọn đông phong"

Chốn quan trường giờ đây đã chẳng còn có ý nghĩa đối với tác giả. Bởi ông không còn phải phục tùng bề trên, nghi lệnh cho cấp dưới nữa. Mọi khen, chê, thưởng, phạt của cuộc đời làm quan giờ chỉ là hư vô. Nhà thơ đã thoát khỏi cái vòng danh lợi luẩn quẩn, để được thỏa sức vẫy vùng khắp bốn phương. Cuộc sống ấy thật đáng ngưỡng mộ:

"Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

Không Phật, không Tiên, không vướng tục."

Nhà thơ không còn phải vướng bận bất cứ điều gì trên trần thế, ông có thể vui chơi, đàn hát, uống rượu…. một cuộc sống tự do, tự tại hơn bao giờ hết. Trải qua biết bao nhiêu năm cống hiến và phụng sự cho triều Nguyễn, tác giả cuối cùng cũng được tận hưởng trọn vẹn cuộc sống của riêng mình một cách "ngất ngưởng" nhất. Thái độ, phong thái này vốn có từ khi nhà thơ bắt đầu làm quan nhưng càng thể hiện rõ nét hơn khi ông về già, về nghỉ hưu. Ba câu thơ cuối nhà thơ khẳng định rằng "không có một ai ngất ngưởng bằng mình":

"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo xơ chung

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"

Nguyễn Công Trứ khẳng định với mọi người rằng ông là một vị trung thần tận tâm với triều đình bằng lối so sánh với những bậc anh hùng như Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật… của đời Hán, Tống bên Trung Quốc. Công lao và những đóng góp của ông là vô cùng nhiều và to lớn. Giọng văn đĩnh đạc, hào hùng như là lời khẳng định đầy tự hào của tác giả về bản thân. Cho nên ông đã tuyên bố: "Trong triều ai ngất ngưởng như ông!" Câu thơ cuối cùng nói lên nội dung của toàn bài, là sự cắt nghĩa, lí giải về quan niệm làm một đấng nam nhi ở trong trời đất của nhà thơ.

Bằng việc khẳng định thái độ sống của mình, ông muốn gửi tới những bậc nam nhi trong thiên hạ rằng phải biết vị trí của mình đối với trời đất, "trị quốc bình thiên hạ" là phận sự của mỗi người. Lời khẳng định tuy ngắn gọn mà súc tích, bày tỏ sự chắc chắn trong chí hướng của một người đã từng làm quan.

Toàn bộ bài thơ với nội dung mà nó truyền tải, người đọc chắc chắn sẽ hiểu được cái "ngất ngưởng" trong thơ của Nguyễn Công Trứ. Bằng tài năng, kinh nghiệm và những đóng góp của mình cho non sông, đất nước, tác giả đã khiến cho mọi người ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi con người, đặc biệt là người con trai đối với cuộc đời. Như vậy, cái tôi "ngất ngưởng" của nhà thơ không phải là một thái độ tiêu cực mà là sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa, tài tử.

Chỉ qua một bài thơ ngắn mà tác giả đã gửi gắm được toàn bộ lối sống và cái nhìn của mình trước cuộc đời. Thể thơ Nôm độc đáo với nhịp điệu rõ ràng, nhấn mạnh được phong thái hơn người của Nguyễn Công Trứ. Đọc bài thơ, ta thấy thêm cảm phục những người nam nhi đã cống hiến hết mình cho đất nước trong thời kì phong kiến, cũng thấy trân trọng thêm thái độ và tinh thần của tác giả đối với cuộc đời.

6 Sự thanh bình

Bài văn phân tích tác phẩm "Bài ca ngất ngưởng" số 6

Nếu như thể “ngâm khúc thể hiện một con người cô đơn, đau xót đi tìm những giá trị của mình bị mất mát” thì hát nói “một thể thông dụng trong ca trù thể hiện một con người tài tử thoát vòng cương tỏa, thoát sáo, thoát tục lụy, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện tại”.

Nhắc đến thể hát nói không thể không nhắc đến tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ bài thơ đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và thể loại của nó. Bài thơ thể hiện cái tôi ngông của tác giả, một phong cách sống khác đời vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến trên cơ sở ý thức về tài năng và giá trị của bản thân.

Nguyễn Công Trứ là một nhà Nho nghèo đã từng thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan xong con đường công danh ấy không được bằng phẳng, thăng trầm. Sáng tác của ông hầu hết là bằng chữ Nôm, thể loại ưa thích nhất của ông là hát nói bởi ông đã có điều kiện tham gia ca trù vốn khá phát triển ở làng Cổ Đạm gần làng ông. Đề tài và nội dung trong các bài thơ hát nói của ông rất đa dạng như: tình yêu, đồng tiền, chí làm trai, sự ăn chơi hưởng lạc….

“Bài ca ngất ngưởng” thuộc đề tài sự ăn chơi hưởng lạc, bài thơ được sáng tác 1848 là năm nhà thơ cáo quan về hưu, sống cuộc đời tự do, thoải mái. Điều đó được thể hiện rõ nét qua từ “ngất ngưởng”. Theo Nguyễn Đình Chú đó là “nhằm để diễn tả một tư thế, một thái độ, một tinh thần, một con người vươn lên trên thế tục, sống giữa mọi người mà dường như không nhìn thấy ai, đi giữa cuộc đời mà dường như chỉ biết có mình, một con người khác đời và bất chấp mọi người”.

Sáu câu thơ đầu là lời tự thuật về cuộc đời thi thố tài năng ở chốn quan trường của tác giả với những sự kiện tiêu biểu. Mở đầu bài thơ là một câu thơ chữ Hán thể hiện quan niệm, triết lí sống mà nhà thơ đã theo đuổi. Do cảm hứng phóng túng, làm chơi, buông thả nên hát nói được cấu tạo một cách đặc biệt. Nó pha trộn lời Hán với lời Việt. Hầu hết các bài đều có một câu chữ Hán là một câu dẫn ngữ nói một tư tưởng nào đó được sẵn đặt ở đầu câu.

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự” nghĩa là mọi việc trong khoảng trời đất đều là phận sự của ta. Cho thấy sự làm chủ của con người trong vũ trụ, con người với tinh thần nhập thế, trách nhiệm gánh vác việc đời. Ý thơ này đã được ông thể hiện nhiều lần trong những bài thơ khác nhau như: “Vũ trụ chức phận nội” việc trong vũ trụ là phận sự của ta hay “Vũ trụ giao ngô phận sự” mọi việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta.

Ông luôn xác định cho mình một lối sống tích cực, sống với đời và đóng góp cho đời. Ông đã chịu ảnh hưởng chí làm trai của Nho giáo và kế thừa tinh thần bậc tiền nhân như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm rồi Phan Bội Châu như “Sinh vi nam tử yếu hi kì/ Há để càn khôn tự chuyển di”…

Tiếp theo nhà thơ tự nói về mình điều hiếm thấy trong thơ văn trung đại. Bởi con người trong giai đoạn ấy cái tôi cá nhân bị lu mờ, ít thấy tác giả xuất hiện trực tiếp do người trung đại không coi mình là trung tâm mà chỉ là một bộ phận trong chỉnh thể lớn. Nhưng ở đây tác giả đã tự tin thể hiện cá tính, con người riêng của mình.

“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

…Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. “Tài bộ” là tài hoa. Ông tự khẳng định mình là một người “tài năng lỗi lạc xuất chúng” đã “vào lồng” tức ông coi việc làm quan trong triều bị giam hãm trong lồng gò bó, mất tự do. Nhà thơ hẳn phải là con người phóng khoáng, có chí tung hoành, không hám danh hám lợi nên mới tự tin bộc lộ bản thân. Ông liệt kê các học vị, các chức quan lớn mà mình đã nắm giữ. Với câu văn dài ngắn khác nhau, nhịp thơ linh hoạt cùng với cách sử dụng điệp từ “khi” và hệ thống từ Hán Việt đã thể hiện một cảm hứng tự hào, tự tin khẳng định cái tôi cá nhân của một con người tài năng.

Phần còn lại là sự giãi bày cách sống ngất ngưởng khác thường của thi sĩ. Lại một câu thơ chữ Hán xuất hiện “Đô môn giải tố chi niên” đánh dấu sự kiện chuyển biến trong cuộc đời nhà thơ với ý nghĩa cả câu: năm ở kinh đô cởi trả ấn để về hưu, sống một lối sống như mình mong muốn:

“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

…Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.

Chỉ với bốn câu thơ mà đến hai lần từ “ngất ngưởng” xuất hiện phải chăng nhà thơ quá yêu thích lối sống ấy. Trong các câu thơ trên có sử dụng nghệ thuật đối ý tương phản. Đạc ngựa mà lại đeo cho bò vàng, tay kiếm cung mà nên dạng từ bi nhắc đến đao kiếm là con người ta nghĩ ngay đến binh đao, chém giết làm sao có thể từ bi, đi vãng cảnh chùa để thoát tục mà “Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì”… chính sự đối lập gay gắt trong nhân cách của nhà thơ tạo nên sự khác biệt của ông.

Nguyễn Công Trứ là người có công lớn với triều đình, với nhân dân từng giúp dân trị thủy, khai hoang và lập nhiều chiến công trong việc dẹp loạn các cuộc nổi dậy chống triều đình. Ý thức được tài năng của mình ông lựa chọn cho mình một phương thức sống, một cách sống khác người. Trước tiên ông nguyện một lòng phò vua giúp nước, cống hiến tài năng trí tuệ của mình “đem tất cả sở tồn làm sở dụng” (đem tất cả chí bình sinh của mình ra cống hiến cho đời) với trí nam nhi của mình:

“Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”

Sau khi đã hoàn thành trách trách nhiệm trên vai người trí sĩ yêu nước thương nòi, ông cho phép mình được hưởng thú tiêu dao, hành lạc với quan niệm “Cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy”. Chính bởi vậy ông chẳng bận tâm đến chuyện được mất, khen chê ở trên đời, ông bỏ ngoài tai tất cả để toàn tâm tận hưởng thú vui của riêng mình:

“Được mất dương dương người thái thượng

Khen chê phơi phới ngọn đông phong”

Hai câu thơ tiếp theo với cách ngắt nhịp 2/2/2/2, 2/2/3 linh hoạt, dồn dập liệt kê các thú vui của tác giả, tạo cho câu thơ phong phú về âm điệu, nhạc điệu:

“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

Không phật, không tiên, không vướng tục”

Điệp từ “khi” và ba từ “không” liên tiếp lặp lại cho thấy một tâm hồn tự do, phóng khoáng không vướng bận thế tục, không vướng việc đời, một phong thái ung dung, tự tại. Nguyễn Công Trứ đang tiêu dao tận hưởng những ngày tháng của một kẻ sĩ tài hoa, tài tử: “Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp/ Trong thú yên hà mặt tỉnh say”

Cuối cùng nhà thơ đúc kết lại toàn bộ cuộc đời mình bằng ba câu thơ với sự khẳng định chắc nịch tài năng và phẩm chất của bản thân:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung

Trong triều ai ngất ngưởng như ông”

Nhà thơ đã tự xếp mình ngang hàng với các vị danh tướng lỗi lạc của đời Hán, đời Tống bên Trung Hoa. Trái, Nhạc, Hàn, Phú là Trái Tuân, Hàn Phi, Hàn Kì, Phú Bật. Ông tự định vị, tự ý thức được tài đức của mình. Ông rong chơi cho thỏa chí của mình nhưng vẫn vẹn đạo vua tôi. Thật đúng như nhận xét của Trần Đình Sử về Nguyễn Công Trứ “Nhập thế tục mà không vương tục, rong chơi mà vẫn trọn nghĩa vua tôi”. Kết thúc bài hát tác giả tự xưng bằng một tiếng “ông” hào hùng. Cái tôi cá nhân được phô diễn cực độ, tự tin khẳng định trong triều chẳng có ai được như ông.

“Bài ca ngất ngưởng” với bút pháp nghệ thuật đặc sắc sử dụng các điệp từ, câu cảm thán làm cho ngữ điệu nói bộc lộ rõ, nó làm cho tính chủ thể của lời văn nhất quán và xuất hiện giọng điệu khẳng khái ngang tàn, ngạo nghễ, thách thức. Sử dụng tiếng thô, tiếng lóng trong sinh hoạt hàng ngày tạo ra giọng nói sống động pha tạp vừa thanh vừa tục. Trong một bài thơ tính cả nhan đề có đến năm lần nhà thơ dùng từ “ngất ngưởng” thể hiện cá tính ngông của ông.

Bài thơ đã khắc họa chân dung của cụ Nguyễn Công Trứ một con người tài ba, lỗi lạc vừa làm trọn phận bề tôi, vừa thỏa chí của bản thân mình. Bài thơ đã góp phần làm cho thể thơ hát nói được thể hiện đúng với cấu trúc, chức năng của mình.

7 Sự thanh bình

Bài văn phân tích tác phẩm "Bài ca ngất ngưởng" số 7

Nguyễn Công Trứ (1778-1858) biệt hiệu là Hi Văn, một danh tướng triều Nguyễn, văn võ toàn tài. về sự nghiệp văn chương, ông để lại khoảng 150 bài thơ, câu đối, bài "Hàn nho phong vị phú " là một kiệt tác. Với những bài thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ có giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng: "Chí nam nhi", "Chí khí anh hùng", "Nợ tang bồng"… trong đó, độc đáo nhất là "Bài ca ngất ngưởng".

Vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" thật đặc sắc và rất thú vị. Đó là vẻ đẹp của một nhà nho giàu cá tính, dám đem tài năng thi thố với đời, dám hành động cho thoả chí nam nhi, đồng thời cũng dám hành lạc biểu lộ bản ngã của một khách tài tử. Vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" còn là chất thơ, chất nhạc in đậm dấu ấn của một tao nhân mặc khách, một tài tử mang cốt cách anh hùng.

Thơ trung đại vốn phi ngã, nhưng "Bài ca ngất ngưởng" đã thể hiện cái tôi một cách đàng hoàng với tất cả niềm tự hào hiếm thấy. Một cách xưng danh thật hào hùng. Trong xã hội phong kiến đã mấy ai dám nói như Nguyễn Công Trứ?

"Vũ trụ nội mạc phi phận sự,

Ông Hi Vân tài bộ đã vào lồng."

Kẻ nam nhi dám đem "tài bộ " ra thi thố với thiên hạ, làm tròn trách nhiệm với đời. Phải ngất ngưởng, phải sống khác người, vì đã có công danh, về cử nghiệp đã đỗ thủ khoa. Về binh nghiệp đã làm Tham tán. về hoạn lộ đã làm Tổng đốc Đông. Có tài thao lược mới có thể ngất ngưởng, mới dám sống ngất ngưởng:

"Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng".

Có thể hiểu ngất ngưởng vì hơn đời, hơn người, do có "tài bộ". Con đường công danh như được trải dài và mở rộng. Ông Hi Văn đang sống lại những tháng ngày oanh liệt:

"Lúc bình Tây cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên".

Chữ "khi" được điệp lại bốn lần, đan xen với chữ "lúc", đã nêu bật tính thời gian và con đường công danh của một kẻ sĩ anh hùng được mở ra với bao tự hào, kiêu hãnh. Giọng thơ mạnh mẽ hào hùng thể hiện cốt cách của một đấng nam nhi tài ba lỗi lạc. Con người ấy đã sống đẹp hơn bao giờ hết:

"Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh gì với núi sông".

(Nợ tang bồng)

Bức chân dung tự họa của ông Hi Văn là một trong những vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" mà ta cảm nhận được. Giữa triều đình, ông Hi Văn đã sống hết mình, đem tài bộ ra thi thố với thiên hạ "đã nên tay ngất ngưởng". Lúc trả áo mũ về trí sĩ, ông Hi Văn lại chơi hết mình: "Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng". Chiếc mo cau đeo sau đuôi con bò cái như để che miệng thế gian, như để giễu đời. Thật ung dung và thảnh thơi giữa chốn lâm tuyền. Như có một sự hoá thân kì lạ:

"Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng".

Nhìn thấy "dạng từ bi" đó của ông Hi Văn, làm sao Bụt chẳng "nực cười" được? Mọi chuyện được mất, khen chê bỏ hết ngoài tai, "ông ngất ngưởng" chính là một khách tài tử, rất thanh cao. Các điệp ngữ (khi, không) làm cho nhịp thơ, điệu thơ, giọng thơ như nhún nhảy. Cũng là một nét đẹp của ông Hi Văn, cũng là một nét đẹp của "Bài ca ngất ngưởng":

"Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không Phật, không Tiên, không vướng tục".

Bức chân dung tự họa của "ông ngất ngưởng" đã hoàn chỉnh, vừa bề thế, vừa trang trọng. Sự thuỷ chung về "nghĩa vua tôi" là cái thần của bức chân dung tự họa ấy. Sao không tự hào được?

"Chẳng Trái, Nhạc cũng phường Hàn, Phú,

Nghĩa vua tôi cho vẹn dạo sơ chung,

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!".

Vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" đâu chỉ có thế. Còn là vẻ đẹp văn chương, vẻ đẹp của một bài thơ hát nói dôi khổ (hai khổ thơ). Ngôn từ thật biến hoá: khi là "tay ngất ngưởng" rồi lại "đeo ngất ngưởng trở thành "ông ngất ngưởng" rồi còn cất tiếng hỏi: ’Trong triều ai ngất ngưởng như ông!".

Câu thơ co duỗi biến hoá: sáu chữ, bảy chữ, tám chữ; sử dụng điệp ngữ thần tình, giọng thơ du dương, trầm bổng. Chất nhạc cũng làm nên vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng". Nguyễn Công Trứ đã làm Dinh điền sứ tổ chức di dân lấn biển, lập nên hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình) đến nay vẫn được nhân dân hai miền quê ấy thờ cúng, đội ơn sâu.

Nguyễn Công Trứ đã trải qua nhiều thăng trầm trên con đường hoạn lộ, nhưng lúc nào ông cũng thể hiện một bản lĩnh đáng trọng và tự hào: "Lúc làm đại tướng, ta không thấy thế làm vinh; lúc làm lính thú, ta cũng không lấy thế làm nhục".  Nói về vẻ đẹp của "Bài ca ngất ngưởng" là nói về vẻ đẹp của chí anh hùng, chí nam nhi là nói về vẻ đẹp ung dung thanh cao của một tao nhân mặc khách đã để lại nhiều bài thơ hát nói nổi tiếng.

8 Sự thanh bình

Bài văn phân tích tác phẩm "Bài ca ngất ngưởng" số 8

Nói đến những nhà thơ nửa đầu thế kỷ XIX không thể không nhắc đến nhà thơ – ông quan thị lang triều Nguyễn: Nguyễn Công Trứ. Đây là mọt nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, một phần nhân vật hăm hở lập công, hết sức đề cao chí làm trai và cách sống rất độc đáo, luôn tự do, phóng túng.

Nguyễn Công Trứ được coi là một trong những thi sĩ nổi tiếng nhất đương thời, ông có công lớn trong việc nâng thể hát nói thành thể thi ca có khả năng biểu hiện những tình cảm phong phú và tinh tế. Trong số những bài thơ của Nguyễn Công Trứ sáng tác theo thể hát nói, nức danh hơn cả là bài thơ Bài ca ngất ngưởng. Đây là một tác phẩm được sáng tác sau khi tác giả rời bỏ chốn quan trường về quê nhà sống cuộc đời ẩn dật.

Đây cũng là lúc chất ngạo nghễ, ngất ngưởng vốn có của cụ Thượng Trứ được bộc lộ một cách đầy đủ nhất. Dẫu sao, tuy là một nhân vật có bản lĩnh, giàu cá tính, nhưng khi còn đang làm quan, Nguyễn Công Trứ cũng không thể sống một cách tự do, ông vẫn phải tuân thủ những luật lệ của triều đình. Và như lịch sử đã ghi lại, trong nhiều triều đại phong kiến thì triều đại Nguyễn vẫn được coi là một triều đại có những thiết chế hết sức gò bó, phi lí, phi nhân đạo nhất.

Bằng Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ đã trình bày một cách thật sinh động, độc đáo bản sơ yếu lí lịch của mình và bao trùm bài thơ, người đọc có thể cảm nhận một lối sống khác người, khác đời của tác giả. Lối sống của ông đối lập với lối sống của tập đoàn, đối lập với những quan niệm chính thống lúc bấy giờ.

Trước hết, ngay tiêu đề của bài thơ đã khiến người đọc phải chú ý, phải suy nghĩ. Cái độc đáo của Nguyễn Công Trứ phải chăng được thể hiện ngay trong cách ông đặt tiêu đề của bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Theo cách hiểu thông dụng, ngất ngưởng chỉ thế cao mà không vững, dễ đổ vỡ. Thí dụ: Bình hoa để ngất ngưởng. Ngoài ra, ngất ngưởng còn có nghĩa là chỉ người đi thẳng, không vững, lúc tiến lên phía trước, lúc thì ngả sang phải, lúc ngả sang trái…

Đọc kỹ bài thơ, chúng ta có thể nhận thấy tiêu đề của bài thơ này góp phần quan trọng trong việc diễn tả thái độ, tư thế của nhân vật trữ tình – tác giả luôn vươn lên trên thói tục, sống giữa tập đoàn, giữa mọi người mà khác đời, khác người, bất chấp mọi người. Nguyễn Công Trứ thường nói đến chí nam nhi theo tinh thần nho giáo. Trong bài Chí làm trai, nhà thơ khẳng định:

Chí làm trai nam, bắc, đông, tây

Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể

Ở Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ cũng mở đầu bằng một câu chữ Hán có tính chất tuyên ngôn thể hiện cái chí làm trai nói trên: mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không là phận sự của ta: Vũ trụ nội mạc phi phận sự. Đây chính là điều mà Nguyễn Công Trứ tâm niệm. Chẳng thế mà luôn được ông nhắc đến trong rất nhiều bài thơ trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, vũ trụ chức phận nội (việc vũ trụ là phận sự của ta – Gánh trung hiếu), vũ trụ ngã phận sự (Những việc trong vũ trụ là phận sự của ta – luận kẻ sĩ).

Theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ, đã sinh ra làm đấng tu mi, thì nhất thiết phải có danh gì với núi sông, phải làm những việc lớn lao, phải được ghi vào sử sách. Cái hay của câu thơ mở đầu chính là triết lí sống đúng đắn và tình cảm chân thành của tác giả.

Muốn xã hội tiến bộ, mỗi con người phải tự khẳng định mình, phải cố gắng cao nhất làm được một việc gì đó có ích cho đời để có thể tự hào với mọi người. Khát vọng đó, quyết tâm đó là chính đáng, là rất đáng trân trọng; nhất là một khi nó được thể hiện một cách trực tiếp với một thái độ chan thành của nhà thơ. Tiếp đó, Nguyễn Công Trứ tự xưng tên mình, tự khẳng định tài năng của mình: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Lâu nay, câu thơ này ít nhất đã có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất cho rằng: ông Hi Văn, một con người tài giỏi đã vào vòng cương tỏa của triều đình (như con chim yêu tự do, thích bay trên bầu trời cao rộng, nay bị nhốt vào lồng), và do đó, ông không thể sống ngất ngưởng như mình muốn. Cách hiểu thứ hai: ông Hi Văn là người toàn tài, có thể sánh ngang với trời đất; lồng ở đây được hiểu là trời đất, là vũ trụ, trong quan niệm của người xưa thì đất có hình vuông và trời có hình tròn.

Có lẽ cách hiểu thứ hai thuyết phục hơn, nhất quán hơn so với cách hiểu thứ nhất; đặc biệt nếu đặt trong cảm hứng bao trùm bài thơ, cách hiểu này có văn cứ hơn. Vả chăng, nội dung hai câu đầu thường sẽ chi phối toàn bộ bài thơ, mà cảm hứng chủ đạo trong bài thơ này chính là cảm hứng ngạo nghễ, ngất ngưởng chứ không phải là nỗi niềm oán thán về việc mất tự do. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. Nói trực tiếp về mình, gọi hiệu mình ra mà nói là cách diễn đạt rất Nguyễn Công Trứ. Trước cụ Thượng Trứ, bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng có lần xưng danh:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương đã quệt rồi

(Mời trầu)

Và tác giả truyện Kiều cũng đã từng xưng hiệu trong một câu thơ ai oán của Độc Tiểu Thanh kí:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

(Không biết ba trăm năm sau nữa

Thiên hạ ai người khóc Tố Như)

Nhưng quả thật chưa ai xưng danh rồi sau đó lại dám khẳng định luôn mình là người có tài năng như Nguyễn Công Trứ. Có điều, câu thơ tác giả nói về mình nhưng tựa như nói về người khác, nói một cách tự nhiên, hồn nhiên.

Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng,

Lúc bình Tây, cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên

Đoạn thơ trên bộc lộ sự tự khẳng định niềm tự hào về tài năng văn võ song toàn của mình. Tuy vậy, cái hay của đoạn thơ trên trước hết xuất phát từ thái độ chân thành, hồn nhiên và sự trung thực của tác giả. Tiểu sử Nguyễn Công Trứ quả đã có ghi: Vào năm 1819, ông đã đỗ thủ khoa kì thi Hương; 7 năm sau, Nguyễn Công Trứ làm tham tán công vụ, đến năm 1831 ông làm Tổng đốc tỉnh Đông (Hải An). Lúc 62 tuổi, ông được cử đi đánh thành Trấn Tây…

Tuy là một người xuất thân quan văn, nhưng Nguyễn Công Trứ đã từng chỉ huy đánh tiểu phỉ ở biên giới phía Bắc, đánh giặc ở biên giới Tây Nam, rồi đàn áp các cuộc nổi loạn của nông dân. Sau câu thơ đầu vừa phân tích trên đây là hết sức quan trọng trong tạo nên cái cần thiết để tác giả tự bộc lộ một lối sống ngất ngưởng ở những câu thơ tiếp theo bằng giọng tự trào nhưng rất có duyên thông qua việc ông tự mô tả mình và lối sống của mình:

Đô môn giải tổ chi niên.

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Đối với những nhà giàu sang quyền quí khi xưa, ngựa là phương tiện giao thông chủ yếu. Đi ngựa là thể hiện sự sang trọng và quyền lực. Nhưng cụ Thượng Trứ lại khác đời: cụ không đi ngựa mà lại đi xe do con bò cái lông vàng kéo, rong chơi khắp chốn. Đã thế, trước cửa xe, cụ để bốn câu thơ trên một tấm mo cau:

Xuống ngựa, lên xe, nọ tưởng phàm

Lợm mùi giáng chức với thăng quan

Điền viên dạo chiếc xe bò cái

Sẵn tấm mo che miệng thế gian

Quả thật, ở con người Nguyễn Công Trứ có sự tương phản gay gắt. Sự tương phản này tạo nên nét hấp dẫn của tác giả, một tay ngất ngưởng: bò vàng lại đeo đạc ngựa, vốn tay kiếm cung mà lại từ bi, đi chùa mà lại mang theo cả …một đôi dì. Điều ấy khiến cho kẻ hiền lành, thoát bụt cũng cảm thấy nực cười.

Vậy, vì sao Nguyễn Công Trứ sống giữa chốn danh lợi bon chen như thế mà vẫn bình thản, thoát khỏi lẽ thường ở đời, nhất là đối với một quan lại triều đình trong chốn hoan lộ vốn bất bằng? Có lẽ vì một lẽ đơn giản ngay trong tiềm thức, trong ý thức sâu xa của mình, ông đã không quan tâm đến cái được, cái mất ở đời. Ta còn nhớ trong ngót ba mươi năm chốn quan trường, có lúc Nguyễn Công Trứ làm đại tướng,có khi chỉ là một anh lính thú ở chốn biên ải. Tuy thế, lúc nào ông cũng bình thản như ngọn gió xuân, mặc cho thiên hạ khen hay chê:

Được mất dương dương người tái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Và nguyên nhân cốt lõi của thái độ sống này, của cái ngất ngưởng này chính là sự ý thức đầy đủ về cái tôi cá nhân, cá thể của mình, cũng như ý thức về tài năng và phẩm hạnh của mình. Câu kết của bài thơ, Nguyễn Công Trứ nhấn mạnh thêm một lần nữa cảm hứng ngất ngưởng bằng câu: Trong triều ai ngất ngưởng như ông? Câu nghi vấn nhưng lại chính là câu khẳng định: trên đời này không ai độc đáo, ngạo nghễ, ngất ngưởng bằng thi sĩ Nguyễn Công Trứ.

Đặt trong chế độ phong kiến, Bài ca ngất ngưởng có ý nghĩa về nhiều phương diện. Nó ít nhiều báo hiệu sự thức tỉnh của ý thức cá nhân, cá thể trong hoàn cảnh cái tôi không được thừa nhận. Nó ghi nhận một bước tiến đáng kể trong lịch sử dân tộc theo hướng dân chủ hóa.

Ngày nay, lối sống và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ có thể cần được tiếp thu một cách cân nhắc. Tuy nhiên, bài thơ Bài ca ngất ngưởng vẫn còn có ý nghĩa, trước hết trong việc khích lệ người đọc hãy sống mạnh mẽ, hãy sống có ích để cuộc đời mình ngày một có ý nghĩa, không chấp nhận một cuộc sống tẻ nhật, vô nghĩa.

9 Sự thanh bình

Bài văn phân tích tác phẩm "Bài ca ngất ngưởng" số 9

Nguyễn Công Trứ là người có tài, hoạn lộ gặp nhiều thăng trầm. Ông để lại cho hậu thế khoảng 150 tác phẩm trên nhiều thể loại nhưng thành công nhất ở thể loại hát nói. Bài ca ngất ngưởng là một trong những tác phẩm hát nói xuất sắc nhất của ông thể hiện cá tính tài tử của bản thân.

Bài thơ được sáng tác trong thời gian ông cáo quan về ở ẩn tại quê nhà. Với thể loại hát nói tự do, phóng khoáng rất phù hợp để thể hiện cá tính, con người của Nguyễn Công Trứ. Văn bản thể hiện rõ lối sống ngất ngưởng của ông khi làm quan cũng như khi cáo quan về ở ẩn. Theo quan điểm của Nguyễn Công Trứ, ngất ngưởng là sự thể hiện của tính cách cao ngạo, thoát ra ngoài khuôn khổ xã hội phong kiến chuyên chế. Đây đồng thời cũng là phong sống có bản lĩnh cá nhân, khác đời và hơn đời.

Sáu câu thơ đầu thể hiện lối sống ngất ngưởng khi ông đang làm quan. Trước hết ở ý thức trách nhiệm của ông trước cuộc đời và lòng kiêu hãnh tự tin về bản thân: Vũ trụ nội mạc phi phận sự. Ông khẳng định mọi việc trong trời đất này đều thuộc trách nhiệm của ông. Lời nói đó cho thấy Nguyễn Công Trứ dám khẳng định ý nghĩa, vai trò của bản thân đối với đất nước. Thể hiện ở quan niệm về việc làm quan rất khác người – vừa là danh lại vừa là nợ: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Là danh bởi đây chính là cơ hội để ông chứng tỏ bản thân, chứng tỏ tài năng hơn người, khác người của mình, dùng tài năng đó để cống hiến, phục vụ cho đất nước. Nhưng lại là nợ bởi làm quan sẽ bị ràng buộc bởi trách nhiệm, ông buộc phải chấp nhận cuộc sống gò bó, mất tự do khi ở chốn quan trường. Vốn là người mang trong mình bản tính tự do, tự tại khi bị ép vào khuôn phép cũng là một điều khó khăn đối với Nguyễn Công Trứ.

Tuy nhiên vì ý thức trách nhiệm và niềm kiêu hãnh tự tin nên Nguyễn Công Trứ đã gạt đi thú vui thích của bản thân, theo đuổi con đường khoa cử, đỗ đạt ra làm quan để thực hiện hoài bão giúp nước, giúp đời. Hoài bão to lớn, cao đẹp ấy là hoài bão của biết bao người quân tử trong xã hội lúc bấy giờ. Trong những năm cống hiến cho đời, ông đã làm được nhiều điều và ông tự hào về những điều mình đã làm được, mình đã cống hiến:

Khi thủ khoa, khi tham tán, khi Tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Lúc bình tây cờ Đại Tướng

Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.

Trong cuộc đời làm quan, Nguyễn Công Trứ đã trải qua nhiều chức quan khác nhau: tham tán, tổng đốc Đông, bình tây đại tướng,… đều là những chức vụ quan trọng trong triều đình. Điều đó cho thấy tài năng hơn người của ông. Đồng thời đã cho thấy ý thức trách nhiệm cũng như thái độ tự tin, kiêu hãnh của Nguyễn Công Trữ trước những thành quả mình đạt được.

Những cống hiến ấy không chỉ thể hiện tài năng hơn đời mà còn thể hiện tấm lòng ưu dân ái quốc của ông. Khi đang ở đỉnh cao ở vinh quang, năm 70 tuổi Nguyễn Công Trứ xin cáo quan về quê mãi cho đến lần thứ mười hai ông mới được chấp nhận. Về quê ông hưởng thụ cuộc sống tự do, tự tại, ngao du sơn thủy.

Hành động của ông khi cáo quan về quê cũng thể hiện tư thế ngất ngưởng, khác người: Đô môn giải tổ chi niên/ Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. Hành động đó như một sự thách thức đối với hệ thống quan lại đương thời, đồng thời cũng khẳng định thái độ không còn luyến tiếc với hư vinh mà triều đình đem lại.

Không chỉ vậy cái ngất ngưởng của ông còn thể hiện trong nhu cầu, sở thích cá nhân, điều mà rất ít khi các nhà thơ khác bộ lộ trực tiếp: nơi ở như chốn thần tiên: “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”; du ngoạn cảnh chùa chiền: “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi/ Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì/ Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” hay thưởng thức thu vui hát ả đào: “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng/ Không Phật không tiên, không vướng tục”. Ngoài ra nó còn thể hiện trong thái độ sống an nhiên, tự tại, không quan tâm đến những lời khen chê của dư luận: “Được mất dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong”.

Ông kiêu hãnh, tự hào với lối sống ngất ngưởng của mình: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. Nguyễn Công Trứ tự xếp mình ngang hàng với những người tài năng, nhân cách lỗi lạc. Khẳng định sự khác đời và hơn đời của phong cách sống ngất ngưởng: Trong triều ai ngất ngưởng như ông?

Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ là thái độ tự tin và bằng lòng của Nguyên Công Trứ về phong cách sống có bản lĩnh mà ông suốt đời tâm niệm. Đây là lối sống có trách nhiệm với đời, cần phải tận lực cống hiến và cống hiến có kết quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng cần phải biết hưởng thụ những niềm vui mà cuộc sống dành cho mình. Đó còn là lối sống trung thực, dám là chính mình, vượt ra khỏi khuôn mẫu khắc kỉ phục lễ chật chội, giả dối.

Với thể thơ hát nói tự do, phóng khoáng đã giúp Nguyễn Công Trứ thể hiện thành công lối sống ngất ngưởng của bản thân. Lối sống đó thể hiện cá tính tự do, phóng khoáng, bản lĩnh sống lành mạnh, có sự phá cách về quan niệm sống, vượt qua những khe khắt, giáo điều của lễ giáo phong kiến.

10 Sự thanh bình

Bài văn phân tích tác phẩm "Bài ca ngất ngưởng" số 10

Ngay lúc chưa có danh phận gì, Nguyễn Công Trứ đã từng tự hứa với mình : “Đã mang tiếng ở trong trời đất – Phải có danh gì với núi sông” (Đi thi tự vịnh). Chưa có rồi sẽ có, chỉ cần quyết tâm và nhất là cần tài năng, mà hai cái đó, Nguyễn Công Trứ thấy mình có đủ. Được hậu thuẫn bởi những thành công trong sự nghiệp, cùng với thời gian, niềm tự tin trong ông ngày càng được củng cố.

Ông đã ngất ngưởng và thấy mình có quyền ngất ngưởng – ngất ngưởng trong đời và cả trong thơ, ngất ngưởng từ lúc bạch diện thư sinh, lúc hoạn hải ba đào cho tới tận lúc đã ra ngoài vòng cương toả. Đối với ông, ngất ngưởng là một giá trị, một cách khẳng định giá trị. Thật tự nhiên khi ông có hẳn một bài thơ nói về sự ngất ngưởng, đặt ngất ngưởng lên bình diện ý thức, nghĩa là kể về nó, luận về nó một cách trực diện – ta đang nói về bài thơ hát nói vào hàng xuất sắc nhất của Nguyễn Công Trứ : Bài ca ngất ngưởng !

Cho đến nay, trong đời sống, từ ngất ngưởng đã được dùng, được hiểu theo các nghĩa chính: Thứ nhất là thế ngồi, thế tồn tại ở vị trí chênh vênh trên cao, lắc lư dễ ngã, dễ đổ. Thứ hai một cách sống, thái độ sống, một kiểu ứng xử có phần khác biệt, thậm chí thách thức với các chuẩn mực thông thường vốn được người đời chấp nhận.

Ớ bài thơ của Nguyễn Công Trứ, từ ngất ngưởng đã được dùng chủ yếu với nghĩa thứ hai, tức là nghĩa chỉ định một phạm trù thuộc tinh thần. Qua bốn lần xuất hiện ở những câu then chốt (câu cuối của mỗi khổ) và ở vị trí then chốt của câu (từ cuối cùng – trừ câu thứ 19, do mô hình vần của thể loại không cho phép), từ ngất ngưởng đã đảm nhiệm vai trò chính trong việc làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.

Nhân vật trữ tình trong bài thơ gần như trùng khít với tác giả. Hoàn toàn có thể xem đây là một bài thơ tự vịnh bởi suốt cả tác phẩm, nhà thơ nói trực tiếp về mình, từ sự nghiệp có thể gọi là hiển hách đến cách sống chẳng giống ai và thái độ tự tôn, tự tại rất mực (thơ tự vịnh yêu cầu tác giả phải cho người ta thấy được một cách khái quát đặc điểm của bản thân người viết, khác với các loại thơ trữ tình khác chỉ quan tâm bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của tác giả về một vấn đề, đối tượng nào đó, còn việc “vẽ” mình chỉ là hệ quả gián tiếp của tất cả những điều trên).

Nhưng cách tự vịnh của Nguyễn Công Trứ cũng độc đáo khác người. Tác giả đã dùng nhiều từ, cụm từ khác nhau để gọi mình : ông, ông Hi Vãn tài bộ, ông ngất ngưởng, tay ngất ngưởng (cũng có thể kể thêm cụm từ phường Hàn, Phú). Mới đọc qua, người đọc dễ tưởng có một ai đó đang nói về Nguyễn Công Trứ, bởi những ông, những tay đã được dùng như các đại từ thuộc ngôi thứ ba. ở đây nhà thơ đã khách quan hoá bản thân, tách mình ra khỏi mình để xem xét mà không sợ “cái mình” ấy bị “nhỏ” đi. Phải là một kẻ rất tự tin mới làm nổi điều này.

Nhà thơ ý thức rất rõ rằng mình là một giá trị hiển nhiên giữa đời, không thể phủ nhận. Ông ngông nghênh đặt mình ngang hàng với những nhân vật lỗi lạc ngày xưa. Kết cấu câu chẳng… cũng {“Chẳng Trái, Nhục cũng phường Hàn, Phú”) thể hiện một thái độ tự đánh giá cao rất dứt khoát. Ta tưởng như nghe ông nói : Cái tay Nguyễn Công Trứ ấy, cũng được đấy chứ nhỉ !

Bài ca ngất ngưởng thuộc loại bài thơ hát nói dôi khổ gồm 19 câu. Đi vào khổ đầu tiên, ta đã thấy hiện lên một con người ngang trời dọc đất:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự,

Ồng Hỉ Vãn tài bộ đã vào lồng.

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Câu thơ chữ Hán mở đầu toát lên giọng điệu trang trọng, rắn rỏi, khẳng định mạnh mẽ lí tưởng nam nhi mà tác giả tự nguyện hướng theo : trong vòng trời đất, không việc gì không phải là việc của mình. Dĩ nhiên, đây là lí tưởng chung của những người được đào luyện trong môi trường Nho học và Nguyễn Công Trứ không có phát triển gì thêm. Nhắc lại nó, chẳng qua nhà thơ muốn tái hiện trạng thái tràn trề nhiệt huyết của mình buổi quyết định bước vào lồng.

Âm vang trong câu thứ hai là một lời hứa hẹn, một thách thức, với mình và với đời, rằng : Hãy chờ đó mà xem ! về hai chữ vào lồng, có người cho rằng nó thấm vị chua chát, thể hiện sự ý thức về tình trạng trói buộc, tù túng của chốn quan trường. Nhưng theo mạch thơ, lổng ở đây trước hết là lồng phận sự. Đã nói đến phận sự là nói đến cái luật của nó mà người ta không được phép quên. Đã chơi thì phải chấp nhận luật chơi – chấp nhận để vượt qua, và cũng để thể hiện được cái tài, cái giỏi của mình.

Thêm nữa, cứ cho ỉ ồng là sự trói buộc, thì điều nhà thơ muốn nói ở đây hàm chứa niềm kiêu hãnh : dù vào lồng, ta vẫn cứ nên tay ngất ngưởng, vẫn khẳng định được mình như thường, đâu phải hạng xoàng xĩnh vào luồn ra cúi ! Nguyễn Công Trứ quả có “kiêu” khi tự nhận mình là người tài ba, tài trí {tài bộ) và tinh thông võ nghệ {gồm thao lược). Nhưng ông đã “kiêu” một cách hoàn toàn có căn cứ. Trong nửa đầu khổ thứ hai, ông tiếp tục điểm qua những mốc đáng nhớ trên hoạn lộ của mình:

Lúc bình Tây cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên…

Thủ khoa, Tham tấn, Tổng đốc, đại tướng, Phủ doãn, cái gì ông làm được cũng thuộc loại “nhất bảng” ! Điệp từ khi (cùng với nó là từ lúc) đã tạo được nhịp điệu dồn dập cho các câu thơ, biến cả đoạn thơ thành cuốn phim quay nhanh, điểm lại công nghiệp phong phú của con người đã sống một cuộc đời thật đáng sống. Bên cạnh đó, nó cũng thể hiện thái độ hào hứng của tác giả khi “tính sổ” cuộc đời, thấy mình có thể “vỗ tay reo” khi nợ tang bồng đã được thanh toán sòng phẳng. Hoàn toàn có thể hiểu được tại sao khi rời bỏ kinh thành về quê, ông lại ngông đến thế:

Đô môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Chắc hẳn khi kể lại những việc đã xảy ra trong cái ngày đáng nhớ ấy, Nguyễn Công Trứ vẫn còn lấy làm thú vị hết sức. Ông quả là người biết thưởng thức chính những việc làm trái khoáy nhiều phần khinh bạc của mình. Khinh bạc ở đây là khinh bạc với đời, với những kẻ không đủ gan dứt bỏ chốn quan trường. Dù sao đối với ông, tất cả cũng chỉ là một cuộc chơi. Ồng quý trọng những gì mình đã làm được, nhưng quý trọng không có nghĩa là chỉ biết khư khư ôm lấy chúng.

Cái ông có đâu chỉ chừng ấy, dù đối với bao người, “chừng ấy” cũng đã vô cùng đáng kể rồi. Với từ ngất ngưởng ở câu cuối khổ hai, ta hình dung thật rõ dáng ngồi ngất nghểu, khật khưỡng của tác giả trên lưng con bò cái vàng được “trang sức” bằng đạc ngựa – một dáng ngồi đầy vẻ trêu ngươi, khiêu khích, như muốn giỡn mặt với “cả và” thiên hạ, trước hết là với hàng ngũ đông đúc những quan to, quan bé trong triều. Bỏ lại sau lưng một thời vùng vẫy hào hùng, về nơi cố thổ, nhà thơ để tâm trí hút vào màu mây trắng trên đỉnh non cao :

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Những tưởng khổ thơ đưa người đọc tới miền tâm sự riêng tư, trầm lắng và những cảm nhận hư vô về cuộc đời. Thực ra cũng có một phần, bởi màu mây trắng vốn tồn tại trong văn học như một biểu tượng của cuộc sống ẩn dật thanh cao. Người ta nghĩ nhiều về nó khi muốn hoặc khi đã trút sạch làu làu những ham muốn trần tục. Nhưng trường hợp Nguyễn Công Trứ thì có khác.

Điều ông muốn kể vẫn là sự biểu hiện của cái tôi ngông ngạo vốn có ở “môi trường” mới, không phải trong cái lồng phận sự. Kể ra cũng có lắm chuyện thú vị. Nhà thơ đã khôi hài nói về kiểu nhập vai nửa vời, không triệt để một cách cố ý của mình. Chà chà, tay kiếm cung mà bây giờ cũng nên dạng từ bi cơ đấy ! Anh ta đã thực sự trở thành kẻ ăn chay rồi hay sao? Không phải! Hãy xem cái cách anh đi vãn cảnh chùa thì biết…

Đến nước ấy thì Bụt cũng phải chào thua. Không kể văn học dân gian, có lẽ đây là lần đầu tiên trong văn học viết, ta biết tới một ông Bụt bình dân đến vậy. Nguyễn Công Trứ quả có đủ tài, đủ cái hóm hỉnh để khiến Bụt nếu không đồng loã với mình thì cũng phải bỏ qua cho mình bằng một cái cười xoà.

Đối với Nguyễn Công Trứ, tháo được dây đeo ấn trả lại nhà vua (giải tô) là một điều kiện cần thiết để những con người khác trong ông được dịp cất tiếng nói. Ông rõ ràng rất biết sống cho mình:

Được mất dương dương người thái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Sống, với Nguyễn Công Trứ là biết coi trọng cái hiện thế, hiện tại, biết thưởng thức, nếm trải những thú vui có trong đời như thú ngoạn cảnh thiên nhiên, chùa chiền, thú hát cô đầu, thú uống rượu và đặc biệt là ái tình. Đã là một tay tài tử, làm sao có thể thờ ơ với tất cả những cái đó ? Mọi sự được mất hãy nên phóng tâm coi nhẹ, đừng “bặm môi bặm miệng” quan trọng hoá vấn đề.

“Khen chê phơi phới ngọn đông phong” trước hết là một sự phớt lờ, bỏ qua những lời đàm tiếu, nhưng sau đó là cảm giác lâng lâng nhẹ nhõm của một kẻ tự do, biết sống vượt lên những tiêu chuẩn đạo đức lỗi thời, gò bó và khắc khổ. Nguyễn Công Trứ tự nhận mình là “Không Phật, không Tiên, không vướng tục”. Khỏi phải nói đến cái tục là cái mà người có học, người đường hoàng không ai muốn, nhưng được như Phật, như Tiên thì tốt chứ, lẽ nào lại không màng?

Thực ra điều này có liên quan tới sự lựa chọn riêng tư, không nhất thiết phải đi đôi với thái độ dị ứng các giá trị khác tồn tại trong đời. Nguyễn Công Trứ thấy mình không giống Phật, Tiên thì ông nói thế (Phật, Tiên gì mà đi chơi chùa lại dẫn cả đoàn con hát lên theo) và ông cũng lấy làm hài lòng vì điều đó. Phật, Tiên là những mẫu hình của một thế giới khác, thế giới siêu nhiên. Họ không biết thưởng thức những lạc thú của cuộc đời.

Còn ta, ta là người sống giữa cuộc đời, dại gì mà chối bỏ những niềm vui đời đem lại ! Giống Phật, giống Tiên mà chẳng giống mình thì phỏng có nghĩa lí gì ? Tuy nhiên, ta cũng không tục, ta đã dấn mình vào cuộc chơi với một ý thức văn hoá, với bản lĩnh của người tin vào tài năng và phẩm cách của mình, ứng xử với đời bằng một tinh thần tự do. Ta khác với những kẻ để mình bị khống chế bởi bản năng vật dục, không biết “chơi” với phong độ tài tử, tài hoa và với một thị hiếu thẩm mĩ tinh vi, sành sỏi.

Có khá nhiều từ láy ngoài từ ngất ngưởng xuất hiện trong hai khổ thơ 3, 4: phau phau, đủng đỉnh, dương dương, phơi phới. Rõ là đoạn thơ chú trọng vào việc miêu tả cảm giác, trạng thái tinh thần của tác giả khi đã thoát khỏi vòng cương toả, khác với đoạn trước nghiêng về kể khái quát những công tích đạt được. Từ kìa cũng gắn liền với sự miêu tả, như muốn bày ra trước độc giả một cảnh tượng thật thích chí.

Nói chung, cả đoạn thơ thấm một ý vị hài hước rất hấp dẫn, cho thấy nhà thơ khá bằng lòng với mình, có tự giễu cợt mình cũng là giễu cợt trên tinh thần tự tin rất mực. Điệp từ khi được dùng kèm với những tiếng trắc, tiếng bằng luân phiên trong câu “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng” ngoài nghĩa liệt kê vốn eó gắn liền với ý niệm về thời gian còn thêm sắc thái biểu cảm rõ nét, diễn tả được cái ngả nghiêng thoải mái của nhà thơ trong những cuộc chơi bất tận.

Thái độ sống, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ lúc đã ra ngoài vòng cương toả có những biểu hiện rất riêng. Nhưng không thể nghĩ rằng ông đã hoàn toàn khác mình trước đó. Thực chất vẫn chỉ có một Nguyễn Công Trứ, rất nhất quán, chỉ có điều, khi làm một hưu quan, ông có nhiều điều kiện hơn để thể hiện sự phóng túng và tư tưởng hành lạc (sống vui, vui sống) của bản thân. Ông hoàn toàn không tự mâu thuẫn khi gộp chung con người hành đạo và con người hành lạc vào một, trong lời tổng kết cuộc đời đầy minh bạch và đượm vẻ hài lòng ở khổ cuối:

Chang Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,

Trong triều ai ngất ngưởng như ông !

Sự phóng túng dù được thể hiện ở mức độ cao vẫn không dẫn nhà thơ tới thái độ hư vô chủ nghĩa. Trước sau ông vãn là một nhà nho có tinh thần nhập thế và luôn tâm niệm “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Câu thơ vừa trích không phải đã được viết ra để rào đón, dè chừng, theo như cách hiểu của một số người. Đối với Nguyễn Công Trứ, hành đạo thì cần hiệu quả và hành lạc thì cần “say sưa”, tất cả đều có ý nghĩa. Hành đạo và hành lạc không thể bị đặt vào trong một tương quan loại trừ.

Nhìn chung, Bài ca ngất ngưởng đã khẳng định lí tưởng sống hài hoà giữa cái vì đời và cái vì mình. Bao trùm cả bài thơ là âm điệu khẳng định. Ta không thấy bợn lên ở đây một chút ân hận hay động thái tự vấn nào. Nguyễn Công Trứ đã thể hiện được tài năng của bản thân khi thực hiện lí tưởng trung quân ái quốc, hành đạo cứu đời. Ông đã giữ được bản tính hào mại, phóng túng cả khi vào lổng phận sự và dấn thân trong chốn quan trường.

Ông, khác với nhiều người, đã dứt bỏ chức vị với bao nhiêu cám dỗ một cách nhẹ nhàng, không vướng bận. Ông đã nhập vào các cuộc chơi một cách thoải mái, với tư cách của một kẻ đam mê, dám hết mình. Ông có thể nói mà không thấy ngượng, với mình và với đời : “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”.

Với một con người, khó nhất là cái tự tri. Nguyễn Công Trứ là một kẻ tự tri. Sự thoả mãn của ông được bảo đảm bằng cả một cuộc đời phong phú, bằng sự tự tri. Nó không gây “chối”, ngược lại, tạo được lòng kính trọng ở người đời, ở độc giả. Nói về sự hấp dẫn của ngôn từ thơ ở Bài ca ngất ngưởng, có lẽ không thể bỏ qua việc nhà thơ vận dụng lối nói đậm tính khẩu ngữ. Khi tự xưng thì dùng các đại từ như ông, tay. Khi biểu lộ hồn thơ lai láng thì “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Khi buộc phải so sánh thì “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú”,…

Rồi bao nhiêu từ ngữ mang tính chất nôm na, thông tục đã được “điều động” một cách linh hoạt. Đó là vào lồng, tay kiếm cung, một đôi dì, nực cười, phường,… Quả tính chất khẩu ngữ của ngôn từ đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp sống động và gần gũi, phù hợp hoàn toàn với cốt cách con người tác giả, cũng phù hợp với âm hưởng đối thoại mà ông muốn có (không phải đối thoại trực tiếp mà là đối thoại ngầm với những cách sống, kiểu sống khác – tầm thường và hèn kém).

Nhờ nó, ta tiếp nhận bài thơ như tiếp nhận một lời nói, giọng nói trực tiếp. Độc giả hoàn toàn có thể tưởng tượng thấy đi kèm với các câu thơ là ánh mắt giễu cợt, là nụ cười hóm hỉnh hài hước, là dáng vẻ lúc lắc nghênh ngang của một kẻ ung dung bước giữa đường đời.

Thể thơ hát nói là “thể thơ của con người cá nhân và tự do”. Số tiếng không cố định trong câu thơ và số câu không hạn định chặt chẽ trong bài thơ (nhất là với bài thơ hát nói dôi khổ) đã cho phép tác giả phô diễn một cách khoái hoạt nguồn cảm hứng dồi dào của mình.

Không chỉ thế, sự chuyển đổi vần bằng, vần trắc luân phiên trong các câu, các khổ ; sự biến hoá đa dạng trong nhịp ngắt ; sự cho phép pha trộn ngôn từ nửa Nôm nửa Hán ; sự xuất hiện của nhiều từ láy, nhiều điệp từ,… đã đưa lại ấn tượng người làm thơ không gặp phải bất cứ một sự gò bó nào, muốn kể, muốn tả, muốn nghiêm túc, muốn giỡn đùa đều được.

Điều quan trọng là anh có tận dụng được tính phóng khoáng và dân chủ đó của thể loại để diễn tả tâm tình, suy nghĩ của mình hay không. Có thể nói, với thể thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ đã hoàn toàn được là mình. Thể thơ hát nói đã cho văn học Việt Nam một Nguyễn Công Trứ như ta đã biết và ngược lại chính Nguyễn Công Trứ đem lại được cho thể thơ hát nói một vị trí vinh dự trong bảng thể loại văn học của dân tộc.